Cách mạng tháng Tám với việc xây dựng chính quyền của nhân dân, do dân, vì nhân dân
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930) do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã chủ trương “dựng ra Chính phủ công nông binh”. Từ thực tiễn đấu tranh giải phóng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hội nghị Trung ương (tháng 11-1939) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã xác định hình thức Nhà nước Cộng hòa dân chủ là Chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941) do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chủ trì tại Cao Bằng đã hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc và khẳng định sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật “sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”(1).
Cao trào giải phóng dân tộc do Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo phát triển mạnh mẽ trên cả nước. Tháng 8-1945, chiến tranh Thế giới thứ II ở những ngày kết thúc với việc quân phiệt Nhật Bản đầu hàng phe đồng minh. Ở thời điểm lịch sử đó, Lãnh tụ Hồ Chí Minh nêu rõ: Thời cơ ngàn năm có một đã đến, dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Người kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(2).
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày 14 và 15-8-1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã quyết định tổng khởi nghĩa giành độc lập, giành chính quyền về tay nhân dân. Phải hành động theo nguyên tắc: Tập trung, thống nhất, kịp thời để tranh thủ cơ hội thuận lợi khi toàn dân đã sẵn sàng hành động, Nhật đã đầu hàng và quân đồng minh còn chưa vào để tước vũ khí quân Nhật. Đồng thời, đẩy lùi nguy cơ: Quân Pháp lợi dụng Nhật thất bại mà quay lại áp đặt chế độ cai trị như trước ngày Nhật gạt bỏ Pháp (09-3-1945); quân đồng minh là Anh và Trung Hoa dân quốc (Tưởng Giới Thạch) thực hiện mưu mô chiếm Việt Nam. Cuộc tổng khởi nghĩa đã diễn ra trong nửa cuối tháng 8-1945, giải quyết đúng đắn về tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ. Một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
Nhân dân Hà Nội tham gia mít tinh ủng hộ Mặt trận Việt Minh tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ngày 17-8-1945. (Ảnh tư liệu) |
Ngày 16 và 17-8-1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân đã họp. Đó là hình thức tiền Quốc hội. Đại hội đã bầu Ủy ban giải phóng dân tộc là hình thức tiền Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Có một thực tế là, trong cao trào giải phóng dân tộc và hình thành khu giải phóng Việt Bắc, ở nhiều địa phương và cơ sở tổ chức Việt Minh đã thực hiện nhiều nhiệm vụ của chính quyền cách mạng và đã xây dựng chính quyền nhân dân. Đó là những sáng tạo trong đấu tranh cách mạng nhằm giải quyết vấn đề cơ bản là chính quyền Nhà nước.
Sau khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội (19- 8), ngày 23-8 Lãnh tụ Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. Người soạn thảo Tuyên ngôn độc lập và cùng với Thường vụ Trung ương Đảng chuẩn bị cho ngày lễ tuyên bố độc lập. Ngày 28-8-1945, Ủy ban giải phóng dân tộc được bầu ra từ Quốc dân đại hội Tân Trào cải tổ, mở rộng thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính phủ lâm thời gồm 15 thành viên đại biểu rộng rãi cho các thành phần, lực lượng toàn dân tộc do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Về sự kiện quan trọng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Ngày 02-9-1945, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập, đã tuyên bố trước thế giới quyền độc lập của Việt Nam và thực hiện những quyền tự do dân chủ ở trong nước. Ở đây, nên nêu ngay một điểm là: Khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Ủy ban Trung ương do Quốc dân đại hội bầu ra, đáng lẽ tham dự Chính phủ, song các đồng chí ấy đã tự động xin lui, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng còn ở ngoài Việt Minh. Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học”(3) .
Sau ngày tuyên bố độc lập, chính quyền cách mạng và nhân dân Việt Nam phải đối phó với những khó khăn, thử thách nặng nề. Thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, mở đầu cuộc xâm lược lần thứ hai của Pháp, trắng trợn xâm phạm nền độc lập, chủ quyền của dân tộc Việt Nam. Quân đội Trung Hoa dân quốc (Tưởng Giới Thạch) với danh nghĩa quân đồng minh vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật, nhưng đã thực hiện ý đồ lật đổ Nhà nước cách mạng Việt Nam để lập ra chính quyền tay sai. Nạn đói đã và vẫn ảnh hưởng nặng nề đời sống của nhân dân. Kinh tế, tài chính của đất nước kiệt quệ; hơn 90% dân số không biết chữ. Trong hoàn cảnh như thế, để bảo toàn lực lượng, ngày 11-11-1945, Đảng tuyên bố tự giải tán (rút vào bí mật). Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng.
Xây dựng, củng cố vững chắc chính quyền cách mạng từ Trung ương tới địa phương và cơ sở được tiến hành đồng thời với nhiệm vụ kháng chiến chống xâm lược, trấn áp các thế lực phản cách mạng và chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng được xây dựng từ Cách mạng Tháng Tám mặc dù còn non trẻ nhưng đã thể hiện rõ bản chất cách mạng của một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Nhà nước cách mạng Việt Nam khi đó đã được xây dựng và hoạt động với những đặc trưng cơ bản:
Một là, Nhà nước do nhân dân xây dựng để phục vụ lợi ích của dân tộc và nhân dân chứ không phải để cai trị dân
Đây là bản chất của Nhà nước cách mạng kiểu mới. Trong lý luận cũng như trong thực tiễn xưa nay người ta vẫn coi chính quyền nhà nước là bộ máy cai trị của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, Nhà nước của giai cấp bóc lột thống trị và bóc lột mọi người lao động. Lần đầu tiên ở Việt Nam ra đời một chính quyền nhà nước để phục vụ dân, là đầy tớ của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(4).
Bản chất tốt đẹp của chính quyền cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo ở trong quan điểm giản dị mà sâu sắc đó. Nhưng không ít người trong bộ máy chính quyền mới không nhận thức rõ và hành động đúng chức trách, nhiệm vụ của chính quyền nhân dân và những chuẩn mực cần có của người nắm và điều hành chính quyền. Xuất thân từ trong xã hội cũ, chưa được giáo dục, huấn luyện đầy đủ nên không ít cán bộ chính quyền đã mắc lỗi lầm. Họ bị những cám dỗ vật chất và tham muốn quyền lực chi phối. Chỉ hơn một tháng sau ngày độc lập, trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17-10-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những lầm lỗi chính. Đó là: Trái phép, Cậy thế, Hủ hóa, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo. Người phê phán những biểu hiện cụ thể trong từng căn bệnh đó, nhất là thái độ coi khinh nhân dân “cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng”. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”(5).
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận được những lời phàn nàn, than phiền của nhân dân về tình trạng lộng quyền, hách dịch, nhũng nhiễu của cán bộ chính quyền một số địa phương. Người đã có nhiều bài đăng trên Báo Cứu quốc để phê bình, nhắc nhở. Trên Báo Cứu quốc số 65, ngày 12-10-1945, Hồ Chí Minh có bài: Sao cho được lòng dân? Người viết: “Ta nhận thấy xung quanh các ủy ban nhân dân, một vài nơi tiếng phàn nàn oán thán nhiều hơn tiếng người khen. Dân chúng tín nhiệm ở Chính phủ Trung ương nhiều hơn các ủy ban địa phương.
Những ủy ban đó không những không được dân yêu, còn bị dân khinh, dân ghét là khác nữa… dân ghét các ông chủ tịch, các ông ủy viên vì cái tật ngông nghênh, cậy thế, cậy quyền… người ta còn thì thào chỉ trỏ ông tỉnh trưởng kia vác ô tô đưa bà “tỉnh trưởng” đi chơi mát mỗi buổi chiều. Từ chỗ ngông nghênh xa phí đó rất dễ đi đến chỗ ỷ thế cậy quyền, làm nhiều điều quá tệ”(6).
Người yêu cầu mọi cán bộ chính quyền “phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý... muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”(7).
Hai là, chính quyền cách mạng của nhân dân chú trọng quản lý hành chính đồng thời đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với các vị bộ trưởng: “Các bạn và tôi, chúng ta đều chưa quen với kỹ thuật hành chính”. Nhưng điều đó không làm cho chúng ta lo ngại. Chúng ta vừa làm vừa học, vừa học vừa làm. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sửa chữa khuyết điểm.
Hồ Chí Minh đã nêu sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Một trong những nhiệm vụ ấy là bầu cử Quốc hội, soạn thảo Hiến pháp để quản lý đất nước, xã hội. Người nêu rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị: Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v…”(8).
Về cách tổ chức các ủy ban nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn cụ thể: “Ủy ban nhân dân (làng, huyện, tỉnh, thành phố) là hình thức Chính phủ trong các địa phương, sau khi khởi nghĩa thắng lợi. Toàn thể nhân dân Việt Nam (trừ bọn Việt gian bị tước công quyền) từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái, giàu nghèo, Việt Minh hay ngoài Việt Minh, ai cũng có quyền ứng cử hay bầu cử người vào các ủy ban này”(9).
Đó là chế độ bầu cử thật sự dân chủ, lần đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam. Ngày 06-01-1946 đã diễn ra cuộc tổng tuyển cử trên cả nước bầu ra Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 02-3- 1946, Quốc hội họp Kỳ đầu tiên tại Hà Nội cử ra Chính phủ chính thức do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 09-11-1946, Quốc hội khóa I, tại Kỳ họp thứ hai đã thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khẳng định trên thực tế và trên cơ sở pháp lý - Nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Do hoàn cảnh lịch sử, Nhà nước chưa thể xây dựng và ban hành các đạo luật. Để quản lý mọi hoạt động của đời sống xã hội, từ ngày 10-9-1945 đến ngày 31-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành 182 sắc lệnh. Các sắc lệnh đều có những quy định rõ về hoạt động của các cơ quan làm chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp, kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước các cấp. Hiến pháp năm 1946 gồm 7 chương, 70 điều đã xác định rõ Chính thể dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Quy định về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước: Nghị viện nhân dân (tức Quốc hội); Chính phủ; Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các địa phương; cơ quan tư pháp. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946. Đó cũng là bước phát triển quan trọng về nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt Nam.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ nội trị, ngoại giao theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng
Công việc nội trị là chăm lo phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục thực hiện các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân. Chống “giặc” đói, “giặc” dốt đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, các tôn giáo. Động viên sức dân ủng hộ Nhà nước về vật chất (gây quỹ độc lập, tuần lễ vàng, lập quỹ đảm phụ quốc phòng). Nội trị còn là bảo đảm an ninh, trật tự, trấn áp các thế lực chống đối, phá hoại, giữ cho đất nước ổn định để tập trung lực lượng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc ngày 25-11-1945 đã nhấn mạnh: “Trừng trị bọn phản quốc đã nhân những khó khăn về nội trị và ngoại giao và dựa vào thế lực người mà ngóc đầu dậy, trừng trị bọn chia rẽ, bọn thất bại (defaitisme), bọn đầu cơ tích trữ và bọn lạm quyền nhiễu dân”(10).
Bộ Nội vụ, trong đó có Nha Công an đã quán triệt quan điểm của Đảng, xử lý tốt các vấn đề nội trị, quản lý xã hội bảo đảm sự ổn định, chống các thế lực phá hoại, thù trong, giặc ngoài. Dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Chính phủ, được nhân dân giúp đỡ, lực lượng công an đã làm thất bại âm mưu đảo chính của thực dân Pháp và tay sai ngày 12-7-1946 (khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đang có chuyến thăm nước Pháp). Chiến công đó đã tỏ rõ sức mạnh, thế và lực của Nhà nước cách mạng Việt Nam.
Về ngoại giao, Đảng chủ trương quan hệ với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”: “Một là, thuật ngoại giao là làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết; hai là, muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. “Đối với Tàu, vẫn chủ trương Hoa - Việt thân thiện, coi Hoa kiều như dân tối huệ quốc. Đối với Pháp, độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”(11) . Đối với Mỹ: “Mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ”(12) . “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”(13).
Với chính sách ngoại giao đúng đắn, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xử lý thành công chiến lược và sách lược cách mạng. Chiến lược là giữ vững độc lập, chủ quyền, bảo vệ, củng cố chính quyền nhà nước. Sách lược là sự mềm dẻo, vận dụng các hình thức đấu tranh thích hợp theo nguyên tắc: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Từ tháng 9-1945 đến tháng 02-1946 tạm thời hòa hoãn, nhân nhượng với quân Trung Hoa dân quốc (Tưởng Giới Thạch) ở miền Bắc để tập trung chống quân Pháp xâm lược miền Nam. Từ tháng 02-1946 chuyển sang chính sách hòa hoãn, nhân nhượng với quân Pháp để thúc đẩy quân đội Tưởng Giới Thạch rút về nước. Ngày 06-3-1946, Việt Nam và Pháp ký Hiệp định sơ bộ, theo đó, Pháp công nhận Việt Nam là quốc gia tự do có Nghị viện, Chính phủ, quân đội và tài chính riêng, trong Liên bang Đông Dương và thuộc Khối Liên hiệp Pháp. Đổi lại, Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng và quân Pháp sẽ rút hết sau 05 năm. Cuộc đàm phán tiếp tục để đi đến hiệp định chính thức. Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm chính thức nước Pháp. Ngày 06-7-1946 bắt đầu đàm phán ở Fontainebleau. Cuộc đàm phán không có kết quả. Trước khi rời Paris về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với phía Pháp bản Tạm ước Việt - Pháp với những nhân nhượng đầy thiện chí. Tuy vậy, thực dân Pháp ngày càng lấn tới vì muốn cướp nước ta. Khi không thể nhân nhượng được nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc đã nổ ra đêm 19 rạng ngày 20-12-1946.
Xây dựng và bảo vệ vững chắc chính quyền nhà nước sau Cách mạng Tháng Tám là thành công có ý nghĩa lịch sử và chính trị - thực tiễn sâu sắc, khẳng định chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của cách mạng và bảo đảm cho cách mạng Việt Nam vượt qua những thách thức hiểm nghèo để phát triển trong các chặng đường tiếp theo. Những năm tháng không thể nào quên đó đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng, bảo vệ chính quyền nhà nước. Đó là dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ vững và bảo đảm sự lãnh đạo về mọi mặt của Đảng đối với Nhà nước. Phát huy đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân cả về chính trị, tinh thần và vật chất để củng cố sức mạnh của chính quyền nhà nước, đồng thời hết sức chăm lo đời sống thiết thực của nhân dân. Nâng cao bản chất cách mạng của chính quyền của dân, do dân, vì dân đồng thời kiên quyết đấu tranh, phê phán những biểu hiện tiêu cực trong bộ máy chính quyền. Chú trọng khẳng định cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý của Nhà nước trong hoạt động nội trị và ngoại giao, phát huy vai trò của Hiến pháp, pháp luật. Những kinh nghiệm đó góp phần rất quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trong công cuộc đổi mới hiện nay.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr.150. (2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, t.3, tr.596. (3) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.7, tr.26. (4) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.4, tr.64-65. (5) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.4, tr.66. (6) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.4, tr.51. (7) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.4, tr.51-52. (8) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.4, tr.7. (9) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.4, tr.12. (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H.2000, t.8, tr.31. (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.27. (12) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.4, tr.204. (13) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.4, tr.523. |
PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc
(Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)