Những hạn chế chủ yếu và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay
Thứ Sáu, 11/02/2022, 11:44 [GMT+7]
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tổng thể chiến lược xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045
Đại hội XIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân... Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(1).
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài. Trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo định hướng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam trong đó có hoàn thiện hệ thống pháp luật, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cơ bản nhằm triển khai thực hiện. Những quan điểm cơ bản về hoàn thiện hệ thống pháp luật mà Đảng ta đã xác định mang tính kế thừa, phát triển, phù hợp với xu thế phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Nội dung cốt lõi của chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 bao gồm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”(2).
Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương phát biểu tại Hội thảo quốc gia "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (ảnh Đặng Phước) |
Cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được hoàn thiện cả về nội dung và quy trình, thủ tục. Đặc biệt là từ năm 2013 đến nay, nhiều bộ luật cơ bản cùng các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác đã thể chế hóa các nguyên tắc pháp quyền, dân chủ cơ bản của Hiến pháp năm 2013. Hệ thống pháp luật đã từng bước được hoàn thiện ở hầu hết lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích của người dân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, ngày càng tương thích với các nguyên tắc, chuẩn mực của các điều ước quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, nhược điểm. Cụ thể là:
- Tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật
Một trong những hạn chế, bất cập lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật là tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản luật và các văn bản dưới luật. Thực trạng này dẫn đến nhiều khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của người dân, doanh nghiệp và thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước. Trên bình diện chung, còn tồn tại sự chồng chéo, xung đột giữa các đạo luật với nhau, giữa luật chung và luật chuyên ngành, giữa văn bản hướng dẫn luật này và văn bản hướng dẫn luật khác, dẫn đến tình trạng “làm theo luật này thì đúng, luật khác thì sai”. Tình trạng còn nhiều văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Nhưng hiện tượng đó vẫn diễn ra, thậm chí còn khá phổ biến hiện nay…(3).
Điển hình nhất là sự chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực: Đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch; nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm… Trong báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đề cập đến 20 điểm xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu, tiêu biểu như giữa các văn bản luật: Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Đấu thầu; Luật Nhà ở; v.v…(4).
Sự cồng kềnh, bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng, hiệu lực và hiệu quả điều chỉnh thấp. Sự xung đột, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với các đối tượng phải tuân thủ pháp luật như sự lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc, lỡ cơ hội đầu tư, làm tăng chi phí và rủi ro đối với hoạt động kinh doanh. Đồng thời, các xung đột, chồng chéo này cũng là những cản trở đối với việc thực hiện pháp luật, làm giảm niềm tin vào pháp luật, tạo cơ hội phát sinh các hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng nhất là trong thực hiện các công trình, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan về thực trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản pháp luật. Một cách tổng quan nhất, có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, đó là sự bất cập, hạn chế ngay chính trong cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật. Cho đến hiện nay, mặc dù chúng ta đã đạt nhiều kết quả quan trọng về cải cách bộ máy nhà nước, về phân công chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước song vẫn còn có sự chồng chéo, bất hợp lý về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Chẳng hạn như: Chưa có sự thống nhất, đồng bộ giữa Luật Đầu tư và các luật khác có liên quan, sự chồng chéo, trùng lặp về nội dung quản lý, về cơ quan thẩm định, phê duyệt, xung đột giữa Luật Đầu tư và Luật Dầu khí trong triển khai các dự án dầu khí. Trên thực tế, còn có sự cắt khúc trong xây dựng pháp luật: Từ đề xuất xây dựng mới đến đề nghị sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật. Do vậy, chính từ việc chưa xác định rõ ràng, dứt khoát về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước đã dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn trong nội dung các văn bản quy phạm pháp luật của họ.
Thứ hai, xây dựng chính sách, pháp luật vẫn còn thiếu tính chuyên nghiệp, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ về xây dựng chính sách và soạn thảo văn bản pháp luật của một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu.
Thứ ba, về phương diện trách nhiệm: trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, của người đứng đầu, của các bộ phận tham mưu, trách nhiệm giải trình, tuy đã được quy định nhưng còn chung chung, đặc biệt là còn thiếu các chế tài xử lý vi phạm trong xây dựng pháp luật, chế tài đối với việc ban hành các văn bản pháp luật trái quy định.
Thứ tư, hạn chế trong việc chủ động phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan nhà nước trong xây dựng chính sách, pháp luật.
Thứ năm, ở mức độ nhất định, biểu hiện tư duy bao cấp, né tránh trách nhiệm… vẫn còn ít nhiều hiện hữu. Đây là những hạn chế mà thời gian gần đây đã được các đại biểu Quốc hội, lãnh đạo Chính phủ và các doanh nghiệp đề cập.
- Tính ổn định của pháp luật thấp, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung
Một trong những hạn chế lớn trong xây dựng pháp luật là chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và thiếu tính ổn định của hệ thống pháp luật. Tần suất sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ văn bản pháp luật còn rất cao. Nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật luôn phải thích ứng với sự thay đổi liên tục của thực tiễn cuộc sống. Việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về nguyên tắc là điều cần thiết. Tuy nhiên, nếu pháp luật thường xuyên thay đổi sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực tới quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, gây nên nhiều khó khăn trong thực hiện pháp luật, đồng thời cũng gây khó khăn cho chính hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước.
- Chưa thực hiện đúng các yêu cầu về xây dựng, phân tích chính sách trong quy trình xây dựng pháp luật
Để bảo đảm chất lượng của pháp luật, cần phải thực hiện tốt việc xây dựng, phân tích chính sách - cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng cho việc soạn thảo nội dung các văn bản pháp luật. Về cơ sở pháp lý, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã đổi mới cơ bản quy trình xây dựng, ban hành văn bản theo hướng tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị định, quy định quy trình xây dựng chính sách cần được thông qua, phê duyệt trước khi bắt đầu soạn thảo văn bản. Nhưng trong thực tiễn, công đoạn xây dựng, phân tích, lấy ý kiến góp ý rộng rãi, đánh giá tác động chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Nhiều khi các đề nghị xây dựng luật mới chỉ là cảm tính, chưa đưa được cuộc sống vào luật(5). Nhiều dự án do vậy đã phải soạn thảo lại, sửa đổi nhiều lần, gây lãng phí lớn về thời gian, công sức và tiền bạc.
- Hạn chế về thực hiện đánh giá tác động của chính sách, pháp luật, lấy ý kiến, phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Trong thực tiễn xây dựng pháp luật, còn nhiều hạn chế trong việc đánh giá tác động của các chính sách, pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Có nhiều dự thảo văn bản mới chỉ dừng lại ở việc lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan, hầu như chưa lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Do việc gửi dự thảo văn bản xin ý kiến thường là chậm nên không đảm bảo đủ thời gian cần thiết để cho các cá nhân, tổ chức liên quan nghiên cứu, đóng góp ý kiến, phản biện. Trên thực tế, ở nhiều nới tuy có tổ chức lấy ý kiến góp ý, tham vấn song nội dung, chất lượng của các ý kiến góp ý còn sơ sài, nặng về câu chữ, kỹ thuật trình bày văn bản mà chưa tập trung nhiều vào các nội dung của dự thảo văn bản.
- Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật chưa bảo đảm, chưa phù hợp thực tiễn, tính khả thi thấp, còn tình trạng ban hành văn bản pháp luật sai về nội dung và thủ tục, hình thức
Bên cạnh những văn bản quy phạm pháp luật được đầu tư xây dựng và có chất lượng tốt thì vẫn còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp thực tiễn, khó thực hiện, thậm chí có những quy định pháp luật đang quá xa rời thực tế hay không muốn nói “trên trời”. Tình trạng này gây nhiều khó khăn, phức tạp cho người dân và doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các quy định đưa ra thiếu thực tiễn, bất hợp lý mà không có hội đồng thẩm định, phản biện một cách nghiêm túc. Tình trạng “giấy phép con” tuy đã được chỉ đạo quyết liệt để cắt giảm song hiện tại vẫn còn những quy định thủ tục hành chính bất cập, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Vẫn còn tình trạng nhiều văn bản pháp luật kém chất lượng, ở mức độ nhất định có còn trái pháp luật, vi phạm các quy định của văn bản Luật, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích, đến ý thức và hành vi tôn trọng, tuân thủ pháp luật của người dân. Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp về đánh giá hậu quả, tác hại của việc ban hành văn bản trái pháp luật gửi Thủ tướng Chính phủ, qua kiểm tra văn bản do các bộ ngành, địa phương ban hành, đã phát hiện 5.639 văn bản trái pháp luật. Trong đó, có tới 1.236 văn bản trái pháp luật về thẩm quyền ban hành và nội
dung; hơn 3.829 văn bản sai sót về căn cứ pháp lý, thể thức kỹ thuật trình bày văn bản; 574 văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng có chứa quy phạm pháp luật(6).
- Hạn chế về năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức xây dựng pháp luật, chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm chưa được quy định đầy đủ, hợp lý
Xây dựng pháp luật là hoạt động rất phức tạp, chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Năng lực, trình độ, tầm nhìn của đội ngũ cán bộ, công chức về xây dựng pháp luật còn nhiều hạn chế và là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng bất cập trong xây dựng pháp luật. Việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về xây dựng, phân tích chính sách, soạn thảo văn bản pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên, bài bản, chế độ trách nhiệm cùng các chế tài xử lý vi phạm trong xây dựng pháp luật cũng mới chỉ dừng ở nguyên tắc chung.
2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong xây dựng pháp luật, bảo đảm chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật
- Xác định đầy đủ, rõ ràng, hợp lý hơn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, loại bỏ sự chồng chéo, bảo đảm thực hiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng pháp luật Đây là giải pháp rất căn bản để góp phần khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo chất lượng các văn bản pháp luật. Mặc dù quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật là điều kiện quan trọng, song nếu chỉ dừng lại ở quy trình, thủ tục thì vẫn chưa có thể khắc phục hoàn toàn được những hạn chế trong đó có sự chồng chéo, xung đột giữa các văn bản pháp luật như lâu nay. Hiện tại, cơ chế phân công, phối hợp về xây dựng pháp luật của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đang còn nhiều vấn đề bất hợp lý, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật.
Cách thức xây dựng - làm luật ở nước ta không do cơ quan chuyên trách, độc lập, đại biểu dân cử hoặc các ủy ban của Quốc hội chủ trì soạn thảo mà thường được giao cho cơ quan thuộc Chính phủ hoặc cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực trực tiếp xây dựng. Một khi các cá nhân, cơ quan công quyền đã có thẩm quyền xây dựng pháp luật, có điều kiện, lại kèm theo chế độ trách nhiệm phải hoàn thành nhiệm vụ xây dựng pháp luật theo tháng, quý, năm, nhiệm kỳ... và theo cả chỉ tiêu thi đua... nên rất dễ dàng cài cắm lợi ích bộ, ngành, nhóm..., và hiện tượng “đẽo cày giữa đường” khi làm luật, thực ra ở đây chủ yếu là liên quan đến lợi ích(7).
Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gắn với việc rà soát, đánh giá, xem xét, dự kiến bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm kịp thời loại bỏ những quy định lạc hậu, mâu thuẫn, chồng chéo, không đúng thẩm quyền, không minh bạch, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động của chính sách, pháp luật.
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quy định chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm đối với cá cá nhân, tổ chức trong xây dựng pháp luật
Cần quy định chặt chẽ hơn về chế độ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình về công tác xây dựng pháp luật. Quy định các chế tài pháp luật hợp lý, nghiêm khắc hơn đối với các chủ thể ban hành văn bản pháp luật sai trái, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức. Đối tượng để xem xét trách nhiệm bao gồm tập thể cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản; cá nhân người đứng đầu cơ quan; cán bộ, công chức trong quá trình tham mưu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua văn bản có nội dung trái pháp luật(8).
Cần tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xử lý kịp thời các sai phạm theo hướng: Xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc tham mưu xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật; nâng cao trách nhiệm, chất lượng văn bản, phân công hợp lý hơn, phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, tránh tình trạng “giữa đường đổi vai”.
- Thực hiện nghiêm túc, có chất lượng việc lấy ý kiến góp ý, tham vấn, phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật
Để bảo đảm chất lượng, hiệu lực pháp lý và hiệu quả xã hội của các chính sách, văn bản pháp luật cần làm nghiêm túc công đoạn tổ chức lấy ý kiến, sự tham vấn của các chuyên gia, các tổ chức pháp lý, xã hội, người dân và doanh nghiệp. Nhiệm vụ của các cơ quan chủ trì soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải chủ động lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động; rà soát, kịp thời phát hiện các quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, bất hợp lý, không phù hợp với tình hình thực tiễn và đề xuất hướng giải quyết.
Cần đổi mới cách tổ chức, xử lý, sử dụng thông tin của việc lấy ý kiến góp ý, phản biện chính sách và pháp luật đảm bảo khách quan, thực chất hơn. Để góp phần bảo đảm chất lượng của các văn bản pháp luật, cần thu hút sự tham gia ý kiến của các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân ngay từ khâu xây dựng chính sách chứ không chỉ góp ý vào các dự án, dự thảo văn bản pháp luật. Các cơ quan, đơn vị tăng cường công tác tham vấn ý kiến các đối tượng chịu sự tác động của văn bản.
- Tăng cường năng lực và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật, bảo đảm chất lượng của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Xây dựng chính sách, pháp luật là công việc rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi những người trực tiếp thực hiện phải có trình độ chuyên môn sâu, có năng lực phân tích chính sách và soạn thảo văn bản pháp luật, có ý thức trách nhiệm tuân thủ các quy định pháp luật. Để bảo đảm tính chuyên nghiệp, cần xây dựng đội ngũ chuyên gia xây dựng chính sách, pháp luật được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về xây dựng chính sách và pháp luật. Đề xuất đưa dự án luật vào Chương trình xây dựng pháp luật phải có đầy đủ căn cứ khoa học và thực tiễn; dự liệu được hết các yếu tố ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng thực hiện. Trong văn bản pháp luật cần được thể hiện rõ ràng những vấn đề cơ bản như: Đối tượng có trách nhiệm thực hiện, cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện, cơ quan áp dụng chế tài; cơ quan giải quyết tranh chấp; cơ quan cấp vốn; cơ quan giám sát và đánh giá; cơ quan ban hành các văn bản dưới luật; cơ quan duy trì
trật tự văn bản.
- Thực hiện kiểm soát pháp luật - điều kiện quan trọng bảo đảm chất lượng, hiệu quả xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật
Kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ có ý nghĩa đầy đủ, hiệu lực, hiệu quả nhất khi bao quát cả việc kiểm soát hành vi và quyết định pháp luật - quyết định dưới dạng các văn bản pháp luật và các văn bản áp dụng pháp luật. Nếu xét riêng về phạm vi, tần suất tác động, số lượng các chủ thể chịu sự tác động thì có thể nói, sự tác động của các văn bản pháp luật rộng lớn hơn so với những hành vi pháp luật của các cá nhân, tổ chức.
Về cơ sở pháp lý, chúng ta đã có khá nhiều quy định liên quan đến kiểm soát pháp luật, kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã đặt nguyên tắc cơ bản để xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, Điều 119, các điều khác về thẩm quyền của Quốc hội - giám sát tối cao, thẩm quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 70). Thẩm quyền về giám sát, áp dụng chế tài đình chỉ, bãi bỏ đối với các văn bản pháp luật có sai trái cũng đã được quy định đối với các cơ quan nhà nước khác như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. Luật Ban hành văn bản pháp luật năm 2015 cũng đã quy định về chế độ giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, tất cả mọi văn bản quy phạm pháp luật đều phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát theo quy định của pháp luật.
Tuy vậy, tính hiện thực của các quy định Hiến pháp, pháp luật về kiểm soát văn bản pháp luật còn rất hạn chế. Cần nhận thức đầy đủ mục đích, yêu cầu của kiểm soát pháp luật. Kiểm soát pháp luật không chỉ để phát hiện vi phạm về quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành, công bố các văn bản pháp luật. Kiểm soát pháp luật còn có mục đích, nhiệm vụ đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, hài hoà, hạn chế đến mức thấp nhất sự chồng chéo, mâu thuẫn, khắc phục các lỗ hổng pháp luật của hệ thống pháp luật quốc gia nói chung và trong từng lĩnh vực hoạt động xã hội nói riêng.
Kiểm soát pháp luật có lợi ích to lớn, một trong những điều kiện bảo đảm tạo lập, vận hành một hệ thống pháp luật đơn giản, gọn nhẹ, khắc phục nhanh chóng sự phức tạp, rườm rà, số lượng quá lớn, khó tiếp cận, khó áp dụng, gây ảnh hưởng đến ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Kiểm soát pháp luật sẽ giúp giảm thiểu rất nhiều khiếm khuyết hiện nay trong xây dựng pháp luật như sự mâu thuẫn, chồng chéo, vi hiến, bất hợp lý, luật ở trên trời, cuộc đời dưới đất; sự chậm trễ, nóng vội hoặc nợ đọng văn bản pháp luật, v.v…
Cần phân biệt giữa hai khái niệm: Kiểm soát pháp luật và kiểm tra văn bản pháp luật. Đây là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất. Kiểm soát pháp luật bao gồm kiểm tra văn bản pháp luật nhưng rộng lớn hơn cả về phạm vi, mức độ, cách thức thực hiện. Hiện nay, ở Việt nam, kiểm tra văn bản pháp luật được xác định là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc xem xét, đánh giá và kết luận về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản sau khi ban hành (hậu kiểm văn bản) nhằm phát hiện, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật. Đối tượng của kiểm tra văn bản pháp luật theo quy định hiện hành rất hẹp, chỉ bao gồm các văn bản pháp luật từ cấp Bộ trưởng trở xuống sau khi văn bản đã được ban hành.
Trong nội dung của kiểm soát pháp luật một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là kiểm soát Hiến pháp: Kiểm soát tính hợp hiến của tất cả các văn bản pháp luật, đặc biệt là đối với các văn bản pháp luật của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở trung ương. Kiểm soát hiệu lực kép của Hiến pháp: Hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật và hiệu lực trực tiếp. Kiểm soát toàn bộ quy trình xây dựng chính sách, đánh giá tác động của các chính sách, đánh giá tác động của văn bản pháp luật trong thực tế, dự thảo văn bản pháp luật. Kiểm soát sự hài hòa, cân bằng các loại lợi ích trong các văn bản pháp luật. Kiểm soát để phát hiện, nhận diện sự cài cắm lợi ích cục bộ trong các văn bản pháp luật. Không cài cắm vào luật những lợi ích nhóm làm ảnh hưởng đến lợi ích chung, lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức. Kiểm soát pháp luật việc tuân thủ, tính phù hợp của các quy định pháp luật với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, trong đó có các nguyên tắc cốt lõi như: Tôn trọng trật tự thứ bậc về hiệu lực pháp lý của các văn bản pháp luật, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người; công bằng, bình đẳng, nhân đạo; được làm tất cả những gì pháp luật không cấm và nguyên tắc chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Kiểm soát việc tổ chức, quản lý, xử lý, tiếp thu ý kiến, phản biện, tham vấn của người dân, doanh nghiệp đối với dự thảo chính sách và văn bản pháp luật trước và sau khi được ban hành và những nội dung khác trong xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật. Nói cách khác kiểm soát pháp luật bao quát cả kiểm soát việc đưa cuộc sống vào pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, t.1, tr.174-175.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, t.1, tr.284-285.
(3) Nguyễn Bá Chiến: Pháp luật triệt tiêu pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 74, tháng 4/2006.
(4) VCCI báo cáo nhanh về 20 điểm xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật, https://bnews.vn/vcci-bao-caonhanh-ve-20-diem-xung-dot-chong-cheo-lon-cua-phap-luat-/130330.html
(5) Đinh Dũng Sỹ: Chính sách và mối quan hệ giữa chính sách với pháp luật trong hoạt động lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 127, tháng 7/2008 ngày 20/07/2008.
(6) Bộ Tư pháp: “Ban hành văn bản trái pháp luật thể hiện sự “nhờn” luật”, https://nld.com.vn/thoi-su/bo-tuphap-ban-hanh-van-ban-trai-phap-luat-the-hien-su-nhon-luat-20180808091902444.htm
(7) Phạm Văn Chung: Để không làm luật kiểu “đẽo cày giữa đường” https://nld.com.vn/ban-doc/de-khonglam-luat-kieu-deo-cay-giua-duong-20170115222730997.htm
(8) Lê Thị Uyên: Xử lý trách nhiệm đối với người, cơ quan ban hành văn bản trái pháp luật, vi phạm trong hoạt động kiểm tra văn bản và việc khắc phục hậu quả, https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/xu-lytrach-nhiem-doi-voi-nguoi-co-quan-ban-hanh-van-ban-trai-phap-luat-vi-pham-trong-hoat-dong-kiem-tra-vanban-va-viec-khac-phuc-hau-qua
|
GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế; TS. Lê Thị Phuơng Nga
(Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội)