Một số vấn đề về xây dựng và củng cố pháp luật trong Nhà nước phát quyền Việt Nam

Thứ Tư, 20/04/2022, 08:39 [GMT+7]
    1. Những yêu cầu đối với pháp luật trong nhà nước pháp quyền
 
    Nhà nước nào, trong đó có nhà nước pháp quyền (NNPQ) đều cần phải có pháp luật. Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng luôn gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau và không thể thiếu nhau, hỗ trợ cho nhau, tạo tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau. Muốn ràng buộc quyền lực nhà nước, muốn “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”, chống lại sự độc đoán, chuyên quyền, lạm quyền của cơ quan, nhân viên nhà nước thì phải dựa vào pháp luật, phải bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành trước hết là dành cho Nhà nước, các cơ quan, nhân viên nhà nước để ràng buộc quyền lực của họ bằng việc xác định chính xác, chặt chẽ nhiệm vụ quyền hạn của họ. Pháp luật trong NNPQ phải là chuẩn mực để nhà nước tổ chức, hoạt động, quản lý, quản trị xã hội. Muốn bảo vệ tự do, quyền làm chủ của nhân dân trong NNPQ phải sử dụng pháp luật, thông qua pháp luật. Trên cơ sở đó, pháp luật trong NNPQ phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản là:
 
    - Pháp luật trong NNPQ phải được ban hành đầy đủ, kịp thời với chất lượng cao. Điều này đòi hỏi trong NNPQ những quan hệ xã hội nào cần điều chỉnh bằng pháp luật thì đều có pháp luật điều chỉnh. Nhưng pháp luật cũng chỉ ban hành ở mức cần thiết, hợp lý, hợp tình, công bằng, không nên đưa ra những biện pháp quá đáng, quá khích để bảo đảm sự tương quan giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích mỗi cá nhân.
 
    Pháp luật trong NNPQ phải bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ; thống nhất; phù hợp; được ban hành kịp thời với kỹ thuật pháp lý cao; thể hiện chính xác, đầy đủ ý chí nhà nước bằng các quy phạm pháp luật; công khai, rõ ràng, minh bạch; ổn định, dễ tiếp cận; thể hiện ở mức cao nhất công lý trong xã hội; là những quy tắc xử sự chặt chẽ, chính xác, khoa học và là khuôn mẫu, chuẩn mực thống nhất cho hành vi con người. Pháp luật phải là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội mang tính quy phạm và tính bắt buộc chung khoa học và có hiệu quả cao.
 
 
    - Pháp luật trong NNPQ phải là công cụ chủ yếu và quan trọng hàng đầu trong điều chỉnh quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội quan trọng, phổ biến phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật luôn phải có tính hàng đầu so với các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác. Điều này xuất phát từ vị thế đại diện chính thức cho toàn bộ xã hội, tựa hồ như “đứng trên xã hội” của Nhà nước so với các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội. Nếu có sự mâu thuẫn giữa pháp luật với các công cụ điều chỉnh khác đòi hỏi các tổ chức, cá nhân phải thực hiện theo pháp luật.
 
    - Pháp luật trong NNPQ phải là cơ sở pháp lý chặt chẽ cho việc tổ chức và thực hiện quyền lực của nhà nước một cách khoa học, hiệu quả. Điều này đòi hỏi pháp luật phải quy định chặt chẽ, chính xác cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan nhà nước để tránh sự tùy tiện, lạm quyền. Nhà nước, các cơ quan nhà nước phải tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp, pháp luật, phải thực hiện quản lý xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật.
 
    - Pháp luật phải là công cụ giải quyết hợp lý, có hiệu quả mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và công dân, cá nhân. Trong quan hệ với công dân, Nhà nước là một bên nhưng lại là chủ thể có quyền ban hành pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, là chủ thể thực hiện việc xét xử, phán quyết mỗi khi có tranh chấp, vi phạm pháp luật, do vậy, Nhà nước phải bị ràng buộc bởi chính pháp luật đã được Nhà nước ban hành từ trước. Công dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, trao quyền cho Nhà nước, nhưng hành vi của công dân lại là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước. Vì thế, Nhà nước và công dân phải có trách nhiệm qua lại với nhau, tôn trọng lẫn nhau. Công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước, còn Nhà nước phải bảo đảm các quyền, tự do cá nhân, lợi ích, danh dự của công dân, tạo điều kiện để chúng được thực hiện và không bị xâm hại.
 
GS.TS Nguyễn Minh Đoan, Giảng viên cao cấp Đại học Luật Hà Hội phát biểu tại Hội thảo quốc gia “Những vấn đề mới, đột phá trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” tại TP. Hồ Chí Minh, ngày 17/3/2022. (Ảnh Đặng Phước)
GS.TS Nguyễn Minh Đoan, Giảng viên cao cấp Đại học Luật Hà Hội phát biểu tại Hội thảo quốc gia “Những vấn đề mới, đột phá trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” tại TP. Hồ Chí Minh, ngày 17/3/2022. (Ảnh Đặng Phước)
    Trong Nhà nước pháp quyền, quan hệ giữa Nhà nước và công dân phải diễn ra theo hướng là Nhà nước luôn chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Tranh chấp giữa Nhà nước và công dân phải do Tòa án giải quyết trên cơ sở pháp luật. Khi xét xử, Tòa án phải độc lập, vô tư và chỉ tuân theo pháp luật.
 
    - Pháp luật trong NNPQ phải thúc đẩy tiến bộ xã hội vì hạnh phúc con người, nghĩa là pháp luật phải:
 
    + Luôn phù hợp với quy luật khách quan, có tác dụng thúc đẩy tiến bộ xã hội, đáp ứng ngày một nhiều hơn, tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, vì hạnh phúc của con người.
 
    + Đề cao chủ quyền nhân dân, ghi nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
    
    + Coi con người là giá trị cao quý nhất, các giá trị của con người phải được pháp luật thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ. Phải giảm tới mức cao nhất các tội danh có mức án tử hình. Mọi sự phấn đấu, cố gắng của Nhà nước và xã hội phải vì hạnh phúc con người, mỗi công dân và cả xã hội phải luôn tôn trọng và bảo vệ pháp luật. Pháp luật phải làm sao để công dân có quyền, có nghĩa vụ, đồng thời có khả năng buộc nhà cầm quyền phải tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật đã được ban hành. 
 
    + Ghi nhận, củng cố và không ngừng mở rộng dân chủ xã hội. Pháp luật trong NNPQ phải hài hòa với pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia khác mà quốc gia là đối tác hợp tác, hữu nghị. 
 
    - Trong NNPQ thì Hiến pháp phải có tính tối thượng, phải đề cao chủ nghĩa lập hiến. Trong NNPQ, quyền lực của tổ chức Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cá nhân khác đều không được cao hơn quyền lực nhân dân, nghĩa là phải đặt dưới quyền lực của Hiến pháp, bởi quyền lực nhân dân được thể hiện ở Hiến pháp và dân chủ trực tiếp (nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực của mình thông qua trưng cầu ý dân). Thông qua Hiến pháp nhân dân trao quyền lực của mình cho các cơ quan nhà nước, giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước, đồng thời quy định sự kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Thông qua Hiến pháp, nhân dân đã ủy quyền cho các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động của mình có thể ban hành luật và các văn bản dưới luật khác để chi tiết hóa Hiến pháp, nhằm để thực hiện Hiến pháp, với điều kiện tất cả các văn bản đó không được trái với Hiến pháp vì trái Hiến pháp tức là trái với ý chí, quyền lực của nhân dân. Do vậy, Nhà nước, các tổ chức, cá nhân tôn trọng, thực hiện nghiêm Hiến pháp tức là tôn trọng và thực hiện quyền lực, ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
 
    Nhà nước, các cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước chỉ được làm những gì mà Hiến pháp, pháp luật cho phép (tức nhân dân cho phép), còn nhân dân có quyền được làm tất cả những gì mà Hiến pháp, pháp luật không cấm và Hiến pháp, pháp luật chỉ nên cấm những gì thật cần thiết để bảo đảm quyền tự do, dân chủ cho nhân dân.
 
    2. Thực trạng những yêu cầu đối với pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
 
    Để bảo đảm những yêu cầu đối với pháp luật trong NNPQ chúng ta đã chuyển dần Nhà nước và pháp luật theo yêu cầu, đòi hỏi của pháp quyền và đã đạt được những thành tựu cơ bản như: Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật đã tăng cả về số lượng và chất lượng, các nguồn pháp luật, đặc biệt là án lệ đã được thừa nhận và áp dụng. Nhiều văn bản pháp luật sau khi ban hành đã đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò, tác dụng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy vậy, một số luật quan trọng liên quan đến việc thực hiện quyền con người vẫn chậm được ban hành. Việc ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành thường xuyên chậm so với quy định, chưa được khắc phục triệt để.
 
    Pháp luật đã ngày càng phù hợp hơn với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, tính khả thi cao hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội trên các lĩnh vực khác nhau, nâng cao điều kiện sống và mức sống của nhân dân. Tuy vậy, tính ổn định, khả thi của pháp luật vẫn còn hạn chế, một số quy định pháp luật khó đi vào cuộc sống làm cho sự phát triển của đất nước vẫn chưa được như mong muốn, đời sống nhân dân một số nơi vẫn còn nhiều khó khăn. Nhiều thủ tục, trình tự đã được quy định chặt chẽ, song cũng còn hiện tượng chưa linh hoạt, hạn chế sự kịp thời năng động của nền kinh tế thị trường, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Việc tổ chức thực hiện pháp luật đã có nhiều cải tiến, song vẫn còn một số quy định pháp luật chậm đi vào cuộc sống, dẫn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của các tổ chức, cá nhân chưa kịp thời, chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Một số quy định pháp luật được ban hành còn chung chung.
    
    Luật về tổ chức bộ máy nhà nước được chú trọng ban hành khá đầy đủ, song những quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của bộ máy chưa thực sự khoa học, đặc biệt các quy định liên quan đến cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước. Pháp luật ngày càng hài hòa với pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác trong quá trình đất nước mở cửa, hợp tác ngày càng sau rộng với các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác. Tinh thần thượng tôn pháp luật từng bước được nâng cao, song hiện tượng coi nhẹ pháp luật, vi phạm pháp luật vẫn còn trong tất cả các tầng lớp nhân dân, kể cả đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên. Những thành tựu đạt được nói trên có thể nói đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. 
 
    Nguyên nhân của những thành tựu đó xuất phát từ “sự đoàn kết, thống nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng… sự quản lý, điều hành quyết liệt của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự nỗ lực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp; sự tham gia tích cực, có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế”(1)... để giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.
 
    Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm như: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới... Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”(2).
 
    Trong quá trình xây dựng pháp luật vẫn có một số quy trình thủ tục được thực hiện còn mang tính hình thức, chưa thực chất. Hoạt động thẩm định, thẩm tra các dự án một số văn bản chưa thật chất lượng. Hoạt động phản biện chất lượng không cao, chưa coi trọng hoạt động phản biện. Vai trò của các tổ chức khoa học, kỹ thuật, các nhà khoa học chưa được phát huy đầy đủ. Do vậy, dẫn đến một số quy định của pháp luật chưa chính xác, chưa đúng, chưa phải là công lý, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho xã hội phát triển. Một số quy định pháp luật được ban hành khó đi vào cuộc sống hoặc không được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực và hiệu quả thấp. 
 
    Cơ chế tổ chức thi hành pháp luật phải trải qua nhiều giai đoạn, quy trình pháp lý đôi khi quá phức tạp nên thường chậm trễ so với sự phát triển xã hội. Đồng thời, dễ dẫn đến hiện tượng quan liêu và những chi phí tốn kém cho cả nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân. Cơ chế kiểm tra, giám sát, theo dõi thi hành pháp luật chưa được thực hiện đầy đủ, triêt để, hiệu quả và thường xuyên.
 
    3. Quan điểm và giải pháp xây dựng, củng cố những yêu cầu đối với pháp luật trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
 
    - Việc xây dựng, củng cố những yêu cầu đối với pháp luật trong NNPQ Việt Nam cần quán triệt các quan điểm cơ bản sau:
 
    + Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, chính xác, đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 
    + Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam.
 
    + Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ
thống pháp luật. 
 
    - Việc xây dựng, củng cố những yêu cầu đối với pháp luật trong NNPQ Việt Nam cần chú trọng những giải pháp sau:
 
    + Nghiên cứu, nhận thức chính xác, đầy đủ hơn về NNPQ, về pháp luật trong NNPQ, những yêu cầu của pháp luật trong NNPQ để xây dựng được chính sách, pháp luật phù hợp. Chính sách, pháp luật luôn phải là cái đi trước, phải phản ánh được đầy đủ, chính xác tồn tại xã hội hiện hành, dự liệu được những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Khi xây dựng pháp luật phải giảm tính chủ quan, duy ý chí, tăng tính khách quan của pháp luật, phải đưa cuộc sống vào pháp luật theo tinh thần nhà làm luật “không làm ra luật, không sáng tạo ra luật mà chỉ thể thức hóa luật”(3), ghi nhận quy luật vận động, phát triển của xã hội bằng những ký tự là quy phạm pháp luật. Đổi mới ở tất cả các khâu của quy trình xây dựng pháp luật (thành lập ban soạn thảo, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua…) để có thể tạo ra được những quy định pháp luật tốt nhất trong điều kiện hiện tại. Nâng cao trách nhiệm của những cơ quan, cá nhân tham gia trực tiếp vào quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua các dự án văn bản pháp luật. Dân chủ, pháp chế, công khai, minh bạch trong xây dựng pháp luật. Tiếp tục “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ XHCN của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc”(4).
 
    Tập trung phân tích chính sách pháp luật, đánh giá trước tác động của pháp luật (RIA) một cách thực chất. Bộ phận đánh giá RIA phải độc lập so với bộ phận soạn thảo để bảo đảm tính khách quan. Phải thăm dò dư luận xã hội khi ban hành chính sách pháp luật mới.
 
    + Phải đánh giá hiệu quả pháp luật trong quá trình rà soát, sửa đổi, hoàn thiện pháp luật. Đối với các quy định pháp luật thuộc mỗi lĩnh vực khác nhau cần xây dựng hệ tiêu chí cụ thể chuẩn xác khi đánh giá.
 
    + Cần tạo điều kiện để các nhà khoa học - lực lượng tinh hoa vô tư hơn tham gia xây dựng, phản biện dự thảo các văn bản pháp luật. Điều này đòi hỏi các hiệp hội, các nhà khoa học cần nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn để có thể tư vấn, phản biện, góp ý có chất lượng, thuyết phục hơn nữa đối với các chính sách, quy định pháp luật của đất nước. Đồng thời, phải có trách nhiệm và quyết liệt hơn trong bảo vệ chính kiến, ý kiến của mình trong quá trình hoạch định chính sách và soạn thảo các văn bản pháp luật. 
 
    + Muốn có thói quen “sống, làm việc theo Hiến pháp, pháp luật” thì trước hết phải cưỡng bức, phải phát huy vai trò trừng phạt của pháp luật đối với những hành vi vi phạm pháp luật để chủ thể vi phạm không dám vi phạm, buộc mọi tổ chức, cá nhân phải tuân theo pháp luật. Những hành vi tuân theo pháp luật ban đầu có thể là bắt buộc, cưỡng bức, nhưng lâu dần sẽ thành thói quen, từng bước xây dựng, củng cố lối sống theo pháp luật trong mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi cộng đồng và trong toàn xã hội.
 
    + Đổi mới kỹ thuật lập pháp để tăng tính khách quan, tính ổn định của Hiến pháp, pháp luật, nhất là các văn bản luật để bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho các tổ chức, cá nhân yên tâm đầu tư, sản xuất, kinh doanh, sinh sống. 
 
    + Các văn bản luật phải chi tiết tới mức tối đa để hạn chế việc ủy quyền lập pháp. Khắc phục hiện tượng chậm ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành. Xác lập cơ chế bảo đảm luật được thi hành ngay khi có hiệu lực.
 
    + Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.  Thiết lập cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, coi trọng hoạt động kiểm soát ngoài. Đặc biệt, phải “Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh”(5).
 
    + Khắc phục những mặt trái của kinh tế thị trường. Xây dựng chiến lược dự báo về những biến đổi, phát triển của pháp luật trong tương lai liên quan đến cách mạng công nghiệp 4.0 và việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI).
 
    + Củng cố, hoàn thiện những loại nguồn pháp luật hiện có, nhất là đối với văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, nghiên cứu phát triển đa dạng các loại nguồn pháp luật cho phù hợp với điều kiện mới. Cần phải khai thác, tận dụng, phát huy những mặt tích cực và khắc phục những mặt hạn chế của tất cả các công cụ quản lý xã hội để việc quản lý xã hội trở nên thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn.
 
    + Đẩy mạnh hoạt động tổ chức thi hành pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật. Không ngừng “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội”(6). Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thi hành và theo dõi thi hành Hiến pháp, pháp luật phải chịu trách nhiệm (kể cả trách nhiệm pháp lý) nếu không tổ chức thi hành làm cho pháp luật không hoặc chậm được thi hành. Bất kỳ ai cầm quyền cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật, bất kỳ ai vi phạm pháp luật cũng đều bị xử lý theo pháp luật. + Triệt để thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp, xây dựng cơ chế bảo vệ hiến pháp. Điều đó cũng có nghĩa là đề cao chủ quyền, quyền lực nhân dân, bảo vệ chủ quyền nhân dân. Quốc hội, HĐND là các cơ quan đại đại biểu của nhân dân, nhưng chưa phải là nhân dân. Trong tương lai cần sửa đổi hiến pháp để quyền lập hiến thực sự thuộc về nhân dân, để nhân dân phúc quyết hiến pháp, phúc quyết các quyết định về những vấn đề quan trọng của đất nước mà Quốc hội đã thông qua.
 
    Việc xây dựng, củng cố các yêu cầu đối với pháp luật trong NNPQ là cả một quá trình lâu dài, liên tục, kiên trì, chúng sẽ được hoàn thiện dần cùng với những thành tựu mà chúng ta đạt được trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Cần tập trung thực hiện nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo... Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(7), để có được một hệ thống pháp luật xứng đáng được tôn trọng, thực hiện nghiêm minh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, để Việt Nam sánh vai cùng các quốc gia tiên tiến khác.
 
    (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, tr.79.
    (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.89.
    (3) C.Mác-Ph. Ăng ghen toàn tập: Nxb CTQG, H.1995, t.1, tr.232.
    (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.202.
    (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.223.
    (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.285.
    (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr.174-175.
GS. TS. Nguyễn Minh Đoan
(Trường Đại học Luật Hà Nội)

 

.