Vận dụng quan điểm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Mục tiêu của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đặc biệt là từng bước củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng và Nhà nước. Một điểm quan trọng, đột phá và là dấu ấn trong PCTNTC thời gian qua là công tác phát hiện và xử lý tham nhũng, tiêu cực được chỉ đạo, thực hiện một cách đồng bộ, bài bản, quyết liệt, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; và không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”. Cùng với sự quyết liệt, cần phải bảo đảm tính “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” - như quan điểm chỉ đạo của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đây cũng là bước phát triển lớn trong tư duy và thực tiễn PCTNTC của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. |
1. Bốn chữ “nhân” của trong chỉ đạo, xử lý các vụ án tham nhũng, tiêu cực
Chữ “nhân” ngoài ý nghĩa là con người, mở rộng ra còn chỉ lòng nhân đức, nghĩa là lòng thương người. trong đó, “nhân văn” là văn hóa của loài người; “nhân ái” là yêu thương con người; “nhân nghĩa” là lòng thương người, đối xử với người theo điều phải và “nhân tình” là tình cảm giữa người với người(1). Nhìn chung, 4 đức tính thể hiện tình yêu thương con người, đề cao phẩm chất, giá trị của con người.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chữ “nhân” là “thật thà yêu thương hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào… không e cực khổ, không sợ oai quyền”. Trong cuộc đấu tranh PCTNTC ở nước ta những năm vừa qua, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt quan tâm chỉ đạo phải “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” trong xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực. Tháng 10/2014, tại cuộc tiếp xúc cử tri Hà Nội, trước những bức xúc về tình trạng tham nhũng, tiêu cực, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Phải bình tĩnh, tỉnh táo, rất khôn ngoan, có con mắt chiến lược. Bác Hồ dạy rồi, cha ông ta dạy rồi, đánh chuột đừng để vỡ bình, làm sao diệt được chuột mà bảo vệ được bình hoa. Tức là phải giữ cho được sự ổn định để đất nước phát triển”. Phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc về công tác PCTN năm 2018, đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, kể cả những vụ việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh, công khai, đúng pháp luật, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn; có lý, có tình”(2).
Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013-2020 và Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác đấu tranh PCTNTC giai đoạn 2012-2022, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế được tiến hành kiên quyết, không khoan nhượng, không nương nhẹ, không làm oan, không bỏ lọt tội phạm, rất nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn, có lý, có tình; hầu hết các đối tượng bị xử lý đều nhận thức rõ sai phạm của mình, tâm phục, khẩu phục, ăn năn, hối lỗi, xin lỗi Đảng, Nhà nước”(3). Điều này cũng có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa mạnh mẽ, được dư luận, nhân dân rất đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao.
Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương và các đồng chí chủ trì Hội thảo “Công tác giáo dục liêm chính để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực - Thực trạng và giải pháp”, ngày 20/8/2024 (Ảnh Đặng Phước) |
Như vậy, quan điểm “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định với mục đích là “Việc xử lý phải lấy giáo dục, răn đe, phòng ngừa làm chính, kết hợp giữa trừng trị với khoan hồng”(4) và nhấn mạnh rằng, “tham nhũng, tiêu cực xảy ra do các nguyên nhân chủ quan và khách quan nên việc xử lý phải hết sức biện chứng, chặt chẽ, phải đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể về tình hình thực tế và quy định của pháp luật tại thời điểm xảy ra sai phạm; xem xét kỹ động cơ, mục đích sai phạm, hậu quả thiệt hại và nguyên nhân để đánh giá khách quan, toàn diện trong tổng hòa các mối quan hệ; từ đó, xác định đúng bản chất của vụ việc, hành vi sai phạm, lỗi, động cơ, mục đích; xử lý nghiêm hành vi sai phạm của những người vì động cơ vụ lợi, cá nhân; khuyến khích sự tự giác nhận khuyết điểm, sai phạm, tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại, từ chức của người có sai phạm; đồng thời, bảo vệ, khuyến khích những người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, sáng tạo vì sự nghiệp chung”(5).
“Nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” trong xử lý các vụ án tham nhũng, tiêu cực là quan điểm, tư tưởng mang tính “nhân đạo” trong chính sách hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng, tiêu cực hiện nay. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố khoan hồng và nghiêm trị, vừa thể hiện tính nhân đạo của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật. Muốn thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo nói trên, trong các giai đoạn của công tác điều tra, truy tố, xét xử phải có sự phân hóa, cách xử lý khác nhau đối với những đối tượng phạm tội khác nhau - có đối tượng phải nghiêm trị và có đối tượng cần được khoan hồng. Ngay trong một đối tượng phạm tội, cũng có thể có những tình tiết được giảm nhẹ, hoặc tăng nặng, bảo đảm thấu lý đạt tình, để người phạm tội nhận thức rõ hơn lỗi lầm và thấy rõ chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước ta, thấy rõ quan điểm “công, tội phân minh”.
Nghiêm khắc với đối tượng cầm đầu, chủ mưu, thực hành tích cực, ngoan cố chống đối, không nhận thức được sai lầm của mình, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng và khoan hồng đối với những người phạm tội có thái độ thành khẩn, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường, khắc phục thiệt hại, khắc phục hậu quả đã gây ra, hợp tác tốt với cơ quan chức năng, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải. Từ đó, hướng đến cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ nhận thức được sai lầm của mình, có cơ hội sửa chữa sai lầm để trở thành người tốt, sống có ích cho xã hội. Đây chính là chính sách “mở đường” cho những người phạm tội với lỗi vô ý, phạm tội theo sự chỉ đạo, ép buộc của cấp trên, có vai trò thứ yếu giúp sức trong đồng phạm, không được hưởng lợi hoặc hưởng lợi không đáng kể. Quan điểm này thể hiện rõ tầm nhìn của cố Tổng Bí thư, tránh được tư tưởng tả khuynh trong PCTNTC, tức là bất chấp quy luật, nóng vội, chủ quan, không xem xét các yếu tố, điều kiện, nguyên nhân, hoàn cảnh khách quan, chủ quan của tội phạm, mà chỉ chú trọng đến việc xử lý “gói gọn” càng nhiều càng tốt. Đồng chí cố Tổng Bí thư đã từng giải thích, phải áp dụng tư tưởng này trong xét xử các vụ án, vụ việc về tham nhũng, tiêu cực vì chống tham nhũng, tiêu cực không thể chủ quan, nóng vội; không được né tránh, cầm chừng, thỏa mãn, trái lại phải vừa kiên quyết, kiên trì, bền bỉ, không ngừng, không nghỉ, vừa phải phân hóa xử lý, áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp với các hành vi sai phạm, tùy theo hoàn cảnh, điều kiện lịch sử và quy định của pháp luật. Qua đó, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, có sự răn đe giáo dục đối với người phạm tội và vừa để phòng ngừa, vừa bảo đảm sự ổn định chung cho xã hội.
2. Vận dụng quan điểm “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” trong xét xử các vụ án tham nhũng, tiêu cực
Trong những năm gần đây, quan điểm “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” đã và đang được các cơ quan chức năng vận dụng rõ nét, có hiệu quả trong xét xử các vụ án về tham nhũng, tiêu cực, điển hình là trong xét xử một số vụ án sau đây:
- Vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á
Ngay từ đầu giai đoạn xét xử vụ án, thường trực Ban Chỉ đạo trung ương về PCTNTC đã thống nhất chỉ đạo đường lối phân hóa xử lý đối với các đối tượng vi phạm pháp luật, làm cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ theo quy định của pháp luật phân hóa trách nhiệm hình sự của các bị can, bị cáo và đối tượng liên quan theo quan điểm xử lý nghiêm khắc nhưng luôn khoan hồng, nhân đạo. Theo đó, với nhóm người có chức, quyền nhưng lợi dụng để chỉ đạo, tác động, can thiệp hoặc người chủ mưu, tổ chức, tích cực thực hiện hành vi tội phạm, có động cơ vụ lợi, trục lợi công quỹ,… thì kiên quyết nghiêm trị. Với những người thực hành tội phạm ở vị trí phụ thuộc, bị động, chỉ thực hiện các công việc của mình theo chỉ đạo cấp trên, vì chống dịch mà làm, không có động cơ vụ lợi hoặc có thái độ thành khẩn, hợp tác, khắc phục hậu quả,… thì có thể được xem xét cụ thể đối với từng trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; tùy tình huống có thể miễn, giảm trách nhiệm hình sự hoặc không cần áp dụng các biện pháp tố tụng.
Kết quả cho thấy, bản án dành cho 38 bị cáo được Hội đồng xét xử tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã được phán quyết trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng, dựa trên hoàn cảnh, điều kiện lịch sử phạm tội và áp dụng các tình tiết tăng nặng cũng như nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo Hội đồng xét xử, vụ án xảy ra trong bối cảnh đất nước và thế giới phải đối mặt với đại dịch đặc biệt nguy hiểm, chưa có tiền lệ; toàn bộ hệ thống chính trị phải gồng mình chống từng đợt dịch bùng phát bằng nhiều cách, nhiều biện pháp khác nhau; nhân dân hoang mang, lo sợ. Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng do vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, xảy ra tại nhiều cơ sở y tế trên toàn quốc, xâm phạm trật tự trị an, an toàn quản lý kinh tế, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngân sách nhà nước, cho việc huy động các nguồn lực xã hội, gây bức xúc cho dư luận và đặc biệt, gây bất bình rất lớn trong xã hội, làm suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, do đó, việc khởi tố, truy tố, đưa các bị cáo ra xét xử và áp dụng các hình phạt nghiêm minh đối với từng bị cáo, mỗi tội danh là cần thiết, nhằm trừng trị những cá nhân có hành vi đi ngược lợi ích của nhà nước, nhân dân, đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.
Đồng thời, tòa án cũng đã cân nhắc rất kỹ giữa “công” và “tội” trước khi đưa ra hình phạt đối với từng bị cáo; áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với đối tượng chủ mưu, cầm đầu; khoan hồng đối với những đồng phạm giúp sức có vai trò thứ yếu, là cấp dưới lệ thuộc, làm công ăn lương, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch cấp bách mà không hưởng lợi hoặc hưởng lợi không đáng kể, thành khẩn khai báo, đã nộp tiền và khắc phục hết hậu quả. Với quan điểm đó, tòa án đã nghiêm trị Phan Quốc Việt, tổng giám đốc Công ty Việt Á - bị cáo chủ mưu, cầm đầu, người duy nhất bị tuyên mức án trong khung truy tố, với tổng hình phạt 29 năm tù về 2 tội “Vi phạm đấu thầu” và “Đưa hối lộ”. Giảm nhẹ, khoan hồng đối với 37 bị cáo khác vì hình phạt được đưa ra ở phiên tòa sơ thẩm đều thấp hơn khung hình phạt các bị cáo bị đề nghị truy tố, xét xử(6).
Trong đó, bị cáo Nguyễn Thành Danh, nguyên Giám đốc trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Bình Dương là người duy nhất được tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên miễn trách nhiệm hình sự về tội “Vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Nguyên Giám đốc CDC Bình Dương thừa nhận có sai phạm, nhưng các sai phạm đó diễn ra trong hoàn cảnh đặc biệt. Bị cáo khẳng định mọi việc làm đều vì dân, không có động cơ, mục đích tư lợi cá nhân. Khi được phóng viên hỏi về suy nghĩ của mình sau phiên tòa, ông Nguyễn Thành Danh đã khẳng định: “Phiên tòa sơ thẩm đại án Việt Á diễn ra rất nhân văn. Hầu hết các bị cáo vi phạm đều ở khung rất cao nhưng được tòa xem xét bối cảnh phạm tội và các tình tiết khác để giảm nhẹ hình phạt”(7). Việc được miễn trách nhiệm hình sự tại phiên tòa cũng khiến bị cáo Nguyễn Thành Danh rất bất ngờ vì là điều chưa từng xảy ra trong tiền lệ đối với các vụ được coi là đại án. Và sau này ông chia sẻ rằng, mặc dù bất ngờ nhưng ngay từ đầu bản thân ông “luôn tin tưởng vào chính sách của Đảng, Nhà nước”.
Như vậy, trong vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á, chủ trương phân hóa xử lý của Ban Chỉ đạo trung ương về PCTNTC đã được thực hiện nghiêm túc, vừa bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật mà cũng rất nhân văn, vừa được nhân dân đồng tình, ủng hộ, tin tưởng vào sự sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta, góp phần giữ vững ổn định chính trị.
- Vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao, Hà Nội và các tỉnh, thành phố
Vụ án “Đưa hối lộ, Nhận hối lộ, Môi giới hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Bộ Ngoại giao, Hà Nội và các tỉnh, thành phố là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, với số tiền tham nhũng lên đến hàng trăm tỷ đồng(8). Hiếm vụ án nào cùng lúc có nhiều bị cáo bị truy tố về tội nhận hối lộ như vụ án này. Nhóm bị cáo nhận hối lộ đều là người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã lợi dụng dịch bệnh, vị trí công tác để nhũng nhiễu, tạo cơ chế xin - cho buộc doanh nghiệp phải đưa hối lộ. Hành vi của các bị cáo gây bất bình rất lớn và tạo dư luận xấu trong nhân dân. Theo quy trình, doanh nghiệp có nhu cầu tổ chức chuyến bay giải cứu cần xin chủ trương cách ly tại địa phương, gửi hồ sơ đến Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao), Cục Lãnh sự lấy ý kiến tổ công tác các bộ, ngành và trình Chính phủ phê duyệt, sau đó thông báo cho doanh nghiệp thực hiện. Để có thể lọt vào danh sách các đơn vị được tổ chức chuyến bay, một phần từ yêu sách của nhóm cán bộ, một phần từ sự chủ động của bản thân, các doanh nghiệp tìm cách “bôi trơn” ở tất cả các khâu xét duyệt. Kết quả điều tra cho thấy, việc đưa, nhận hối lộ diễn ra trong thời gian dài, thủ đoạn ngang nhiên, thậm chí có cả sự móc ngoặc, liên kết chặt chẽ. Để có số tiền “khổng lồ” hối lộ cho quan chức mà vẫn bảo đảm lợi nhuận thu được từ các chuyến bay đưa công dân về nước, các doanh nghiệp đã nâng giá vé máy bay và các khoản chi phí phát sinh, dẫn tới số tiền mà công dân phải bỏ ra để có thể về nước bị đội lên rất lớn. Bản án sơ thẩm đã phân tích đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, xem xét toàn diện các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Trong số 54 bị cáo, tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã phân hóa phạm rất rõ ràng, vừa nghiêm khắc, vừa khoan hồng.
Trong nhóm người phạm tội là quan chức, cán bộ, tuy nhận hối lộ trên mức 1 tỷ đồng rất nhiều, nhưng không có án tử hình. Tòa án áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với đối tượng chủ mưu, cầm đầu. Bốn mức án tù chung thân đã được tuyên đối với 04 bị cáo(9) vì đã nhận hối lộ số tiền đặc biệt lớn, gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng xấu đến chính sách nhân đạo của Nhà nước và hình ảnh đội ngũ cán bộ, công chức nên cần thiết phải răn đe loại tội phạm nguy hiểm này. Các bản án này đều tuyên cao hơn so với mức án đề nghị của Viện kiểm sát. Cuối tháng 12/2023, cấp phúc thẩm tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tuyên y án đối với Phạm Trung Kiên, Vũ Anh Tuấn và Nguyễn Thị Lan Hương. Bị cáo Hoàng Văn Hưng do đã nhận tội và khắc phục số tiền đã chiếm đoạt nên được giảm từ tù chung thân xuống 20 năm tù.
Bên cạnh các mức án nghiêm khắc, vẫn có 10 bị cáo được hưởng án tù treo, thể hiện sự phân hóa trong xử lý với những đối tượng có hành vi “vòi vĩnh” hay không “vòi vĩnh” tiền của các bị cáo là cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước. tòa án đã khoan hồng đối với những đồng phạm giúp sức có vai trò thứ yếu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nhất là, 10 án tù treo đã được tuyên đối với 10 bị cáo thể hiện rõ tính “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” trong xét xử của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. 10 bị cáo được hưởng án treo đều là bị cáo trong nhóm đưa hối lộ, họ là giám đốc các công ty hoặc là những nhân viên được giao nhiệm vụ đi đưa tiền, không nhận thức được đó là hành vi đưa hối lộ. Hội đồng xét xử cho rằng, hình phạt của các bị cáo được căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả xảy ra, vị trí, vai trò và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong vụ này, mặc dù các bị cáo đưa hối lộ là vi phạm pháp luật, nhưng rõ ràng đa số các trường hợp là bị ép buộc, bị dồn đến chân tường, không thể không đưa tiền, nhất là sau vài lần chịu sự “quát nạt” của thư ký thứ trưởng - bị cáo Phạm trung Kiên, bắt buộc doanh nghiệp phải đưa tiền, đưa nhiều lần và đưa nhiều tiền mới “làm ăn được”.
Điển hình như: Tòa tuyên phạt bị cáo Phan Thị Mai, nguyên Giám đốc Công ty CP Quốc tế Sao Hà Nội 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Theo Hội đồng xét xử, bị cáo và gia đình đã nộp 600 triệu đồng do người nhận hối lộ trả lại để khắc phục hậu quả vụ án. Trong quá trình điều tra, bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan điều tra để làm sáng tỏ vụ án. Khi phạm tội, bị cáo mới sinh con được hơn 2 tháng tuổi nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ. Ngoài ra, 09 bị cáo khác cũng được hưởng án treo do đã chủ động nộp lại tiền để khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, thể hiện sự ăn năn hối cải về những hành vi mình đã gây ra (gồm các bị cáo: Vũ Minh Thắng bị tuyên phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo do đã nộp hơn 178 triệu đồng người nhận hối lộ trả lại để khắc phục hậu quả vụ án; Nguyễn Thế Dũng bị tuyên phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo do đã nộp 100 triệu đồng; Đào Minh Dương bị tuyên phạt 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo do đã nộp hơn 1,5 tỷ đồng người nhận hối lộ trả lại để khắc phục hậu quả vụ án; Đào Thị Chung Thúy bị tuyên phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo do đã nộp 114 triệu đồng để khắc phục hậu quả vụ án; Tào Đức Hiệp bị tuyên phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo do đã nộp 100 triệu đồng để khắc phục hậu quả; Trần Hồng Hà bị tuyên phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo do đã nộp hơn 1 tỷ đồng để khắc phục hậu quả,…).
Các bản án này đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận xã hội vì một mặt, vừa bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, thể hiện tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung, mặt khác vừa thể hiện tính nhân văn, khoan hồng, để các bị cáo có cơ hội sửa sai, xây dựng lại cuộc đời.
- Vụ án vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Bệnh viện Tim Hà Nội
Trong vụ án này, 12 bị cáo cùng bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. trong đó, ông Nguyễn Quang Tuấn bị khởi tố khi đang là Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, để xử lý sai phạm thời làm Giám đốc Bệnh viện tim Hà Nội. Từ năm 2016-2017, Bệnh viện tim Hà Nội tổ chức 5 gói thầu mua sắm vật tư tiêu hao can thiệp tim mạch, tổng trị giá hơn 595 tỷ đồng. Trong đó, gói thầu số 5 năm 2016 tổ chức theo hình thức đấu thầu rộng rãi có trị giá trên 247 tỷ đồng, 4 gói thầu năm 2017 được áp dụng theo hình thức chỉ định thầu rút gọn trị giá gần 348 tỷ đồng. Để hợp thức hồ sơ thầu, bị cáo tuấn cùng các cựu lãnh đạo, cán bộ bệnh viện đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu. Nhóm này thông đồng với các bị cáo thuộc Công ty Hoàng Nga và Công ty Kim Hòa Phát thực hiện nhiều sai phạm từ khâu lập hồ sơ thầu, đơn giá, chủng loại, số lượng stent và các vật tư sẽ bán cho Bệnh viện; đồng thời, câu kết với công ty thẩm định giá để ban hành chứng thư thẩm định giá theo yêu cầu của Bệnh viện, nhằm bảo đảm cho 2 công ty trúng thầu. Kết quả không nằm ngoài dự tính, cả hai Công ty này trúng hàng loạt gói thầu cung cấp trang thiết bị y tế cho Bệnh viện tim Hà Nội, qua đó, gây thiệt hại hơn 53,6 tỷ đồng, là số tiền chênh lệch giữa giá thiết bị y tế trúng thầu với giá thị trường.
Tại phòng xét xử, chủ tọa phiên tòa đánh giá hành vi của bị cáo Nguyễn Quang Tuấn và các bị cáo khác đã xâm phạm hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức, làm giảm uy tín của Bệnh viện tim Hà Nội; đi ngược cuộc đấu tranh PCTN nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, tương xứng với hành vi. Mặt khác, bị cáo Tuấn và các đồng phạm tại Bệnh viện còn bị xác định đã thông đồng với các bị cáo tại 2 doanh nghiệp để hợp thức hồ sơ đấu thầu, gây thiệt hại số tiền lớn. Bị cáo Nguyễn Quang Tuấn giữ vai trò chính khi yêu cầu cấp dưới lập, trình hồ sơ rồi phê duyệt đơn giá vật tư theo đề nghị của hai Công ty trên. Tuy nhiên, trong vụ án này, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên phạt ông Nguyễn Quang Tuấn (nguyên Giám đốc Bệnh viện tim Hà Nội) 3 năm tù giam về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Mức án này thấp hơn so với mức án Viện kiểm sát đề nghị (4-5 năm tù), thậm chí, thấp hơn nhiều nếu so với khung hình phạt 10-20 năm tù mà ông Tuấn bị truy tố.
Tại sao lại như vậy? trong vụ án này, Hội đồng xét xử khi luận tội những sai phạm của bị cáo Tuấn đã xem xét, đánh giá, cân nhắc thấu đáo điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, có hay không động cơ vụ lợi và các đặc điểm, hoàn cảnh nhân thân của bị cáo. tại phiên tòa, chủ tọa cho rằng, bị cáo tuấn từng là Giám đốc Bệnh viện tim Hà Nội, sau đó là Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, là người có trình độ chuyên môn cao, chuyên gia đầu ngành về tim mạch, được đánh giá cao trong nước và quốc tế. Quá trình công tác, bị cáo được trao tặng nhiều huân, huy chương cao quý. Bị cáo cũng nguyên là Đại biểu Quốc hội, bản thân là giáo sư, tiến sĩ, đã cứu sống cho nhiều bệnh nhân, được nhân dân khen ngợi, yêu quý. Việc tổ chức gói thầu theo hình thức chỉ định rút gọn là sai nhưng việc này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, thời điểm xảy ra sai phạm hoàn cảnh Bệnh viện rất khó khăn, thiếu thốn về vật tư, thiết bị y tế, vì nôn nóng, thiếu hiểu biết, kiến thức pháp luật về lĩnh vực đấu thầu còn yếu kém nên vi phạm. Sai phạm của ông Tuấn xuất phát từ mong muốn giải quyết được những yêu cầu cấp bách phục vụ cho người bệnh, mà không phải vì động cơ vụ lợi. Dưới góc độ nào đó, đây có thể coi là người sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám vì lợi ích chung mà “vượt rào”.
Mặt khác, bị cáo Tuấn đã chủ động nhận trách nhiệm, thành khẩn khai báo, tự nguyện khắc phục hơn 6 tỷ đồng dù không có trách nhiệm phải nộp. Đây là những tình tiết giảm nhẹ hình phạt đáng kể, nên Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo 3 năm tù và không bị cấm đảm nhiệm chức vụ hay cấm hành nghề sau khi chấp hành bản án. Đây là phán quyết hết sức nhân văn, nhân tình, nhận được sự ủng hộ rất lớn của dư luận vì một mặt yêu cầu bị cáo chịu trách nhiệm và hình phạt cho những sai phạm của mình, ngăn ngừa các sai phạm khác, mặt khác, đã tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở lại với công việc chuyên môn, cứu giúp người bệnh, tạo cơ hội cho bị cáo thực hiện tâm nguyện tiếp tục đóng góp cho cộng đồng xã hội. Đến nay, sau 3 năm thụ án trở về, ông Nguyễn Quang Tuấn nhận được sự đón chào từ đồng nghiệp và bệnh nhân. Điều này không chỉ là niềm an ủi cho bản thân ông mà còn là động lực để ông tiếp tục cống hiến cho y học và cộng đồng. Ông bắt đầu lại từ công việc của một bác sĩ thực hành tại Bệnh viện Hữu Nghị từ ngày 01/7/2024, đúng như phát biểu của ông: “Tôi sai đã phải trả giá, giờ tôi muốn khám, chữa bệnh cứu người”…
Ngoài ra, còn rất nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực khác cũng đã được xử lý theo tư tưởng chỉ đạo bốn chữ “nhân” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
3. Một số vấn đề rút ra
Bản chất của con người về cơ bản là thiện và mọi người đều có khả năng hướng thiện, kể cả khi đã có những hành vi sai trái. Do đó, các biện pháp trừng phạt cần phải được thực hiện với tinh thần nhân văn và dựa trên quan điểm phục hồi, giáo dục. Nếu hình phạt quá mức và không phù hợp với bản chất, động cơ và mục đích của hành vi, nó sẽ mang lại hiệu quả ngược lại - nó trở nên hà khắc không cần thiết, thậm chí thiếu tình người và tước đi cơ hội thay đổi, phục hồi và đền bù thiệt hại đã gây ra của người vi phạm.
Mục đích của hình phạt là điều mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quy định trong Bộ luật Hình sự. Về mặt pháp luật thực định, Bộ luật Hình sự Việt Nam từ trước đến nay đều quy định: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Mục đích của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội; trừng trị là bản chất, là thuộc tính của hình phạt chứ không phải là mục đích của hình phạt. Hình phạt có nội dung trừng trị và nội dung giáo dục cải tạo. Vấn đề cơ bản đặt ra là kết hợp hai yếu tố đó như thế nào trong hình phạt để bảo đảm hiệu quả áp dụng của chúng(10). Quan điểm “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” và việc vận dụng quan điểm này vào nhiều vụ án, điển hình là 3 vụ án nêu trên đã cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến việc vận dụng hai nội dung này (trừng trị và giáo dục) trong hình phạt để một mặt, không để người phạm tội hoặc các cá nhân khác trong xã hội tiếp tục phạm tội; mặt khác giáo dục, cải tạo người phạm tội chuyển biến tư tưởng, tình cảm, nhận rõ tội lỗi, sai lầm, khuyết điểm; có ý thức sửa chữa sai lầm; tôn trọng pháp luật để không tiếp tục phạm tội và “mở đường” cho họ tiếp tục cơ hội làm lại cuộc đời, cống hiến cho xã hội.
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ đạo: Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm.
Do đó, có thể nói, quan điểm bốn chữ “nhân” - Nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình trong xét xử tội phạm tham nhũng là quan điểm đúng đắn, nhân đạo, cần được nhận thức đầy đủ và quán triệt sâu sắc về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng. trong giai đoạn hiện nay, trước luận điệu xuyên tạc, chống phá công cuộc đấu tranh PCTNTC, chúng ta cần nhất quán, khẳng định giá trị to lớn của quan điểm, tư tưởng này trong thực tiễn xét xử các loại tội phạm nói chung và tội phạm về tham nhũng, tiêu cực nói riêng. Cần kiên định và tiếp tục vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng này trong thực tiễn. Sử dụng và phát huy hiệu quả các cơ quan báo chí, truyền thông, các trang thông tin điện tử, mạng xã hội để tuyên truyền, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức sâu sắc bản chất nhân đạo trong quan điểm bốn chữ “nhân”; phân hóa, xử lý trong điều tra, truy tố, xét xử các đối tượng có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong việc chia sẻ thông tin tích cực, bài viết chuyên sâu, thực hiện phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy thông tin tích cực đẩy lùi thông tin tiêu cực”.
Xu hướng nhân đạo, hướng thiện là một trong những tư tưởng xuyên suốt trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta cũng như trong chính sách hình sự, thực tiễn xét xử của nước ta. Để có thể phát huy được tính hướng thiện của quan điểm, tư tưởng bốn chữ “nhân” trong chính sách xét xử các tội phạm về tham nhũng, tiêu cực đòi hỏi cần có sự nỗ lực tổng thể cũng như chuyên môn, đạo đức và thực thi công bằng từ các cơ quan hành pháp như Công an, Viện kiểm sát, tòa án. Do đó, tuyên truyền giáo dục về nhận thức, tăng cường năng lực thực thi công vụ và hoàn thiện các chế định trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự chính là những giải pháp cần thiết để có thể hiện thực hóa và thực hiện thống nhất quan điểm bốn chữ “nhân” trong xử lý các đối tượng tham nhũng, tiêu cực, hướng đến mục tiêu cao nhất là hướng thiện người phạm tội ngày càng hiệu quả hơn. Bởi vì, xét đến cùng, “mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng”; “phải lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động”(11).
Tại Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ (khóa XIII), cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xem xét cho thôi giữ chức vụ, cho nghỉ công tác, nghỉ hưu, bố trí công tác khác đối với 14 cán bộ diện trung ương quản lý; các địa phương cũng bố trí công tác và thực hiện chính sách đối với 22 trường hợp cán bộ sau khi bị kỷ luật theo đúng chủ trương của Đảng về việc “có vào, có ra; có lên, có xuống”. Theo cố Tổng Bí thư, điều này thể hiện tinh thần kiên quyết, gương mẫu, nghiêm minh, nhân văn, có tác dụng giáo dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe trong đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên; đồng thời, đã khẩn trương chỉ đạo kiện toàn các nhân sự lãnh đạo thay thế, được dư luận cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình, đánh giá rất cao; là minh chứng cao nhất cho chất lượng của tinh thần “nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình” mà cố tổng Bí thư đã đề ra.
(Còn nữa. Bài 3: Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực - Một việc làm cần thiết, tất yếu; một thực tế khách quan và xu thế không thể đảo ngược)
ThS. Bùi Thị Thu Huyền
(Ban Nội chính Trung ương)
(1) Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên): Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003, trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, tr.709-711.
(2) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh PCTNTC, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. CTQG-ST, H.2023, tr.72.
(3) Nguyễn Phú Trọng: Sđd, tr.93.
(4) Nguyễn Phú Trọng: Sđd, tr.39, 131.
(5) Nguyễn Phú Trọng: Sđd, tr.24. (6) 06 người đều được hưởng mức án dưới khung như các bị cáo: Nguyễn Thanh Long, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế 18 năm tù; Phạm Duy Tuyến, nguyên Giám đốc CDC Hải Dương 13 năm tù; Trịnh Thanh Hùng, nguyên Phó Vụ trưởng, Bộ Khoa học và Công nghệ 14 năm tù; Nguyễn Minh Tuấn, nguyên Vụ trưởng, Bộ Y tế 8 năm tù; Nguyễn Huỳnh, nguyên thư ký của bị cáo Nguyễn Thanh Long 9 năm tù; Nguyễn Nam Liên, nguyên Vụ trưởng, Bộ Y tế 7 năm tù. Ngoài ra, có 03 bị cáo bị tuyên phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, với mức án cụ thể là: Nguyễn Văn tTrịnh, nguyên Trợ lý Phó Thủ tướng 4 năm tù; Phạm Xuân Thăng, nguyên Bí thư tỉnh ủy Hải Dương 5 năm tù; Phạm Mạnh Cường, nguyên Giám đốc Sở Y tế tỉnh Hải Dương 4 năm tù. 02 bị cáo Chu Ngọc Anh và Phạm Công Tạc cùng bị tuyên phạt 3 năm tù về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí. 25 bị cáo còn lại bị tuyên từ 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo đến 15 năm tù.
(7) trích dẫn tại: https://dantri.com.vn/xa-hoi/nguoi-duoc-mien-trach-nhiem-hinh-su-vu-viet-a-neu-lam-lai-sekhong-lam-sai-20240113180528714.htm. (8) Hơn 500 lần nhận hối lộ, với tổng số tiền gần 165 tỷ đồng. (9) Cụ thể là tuyên phạt án tù chung thân đối với các bị cáo: Phạm Trung Kiên, nguyên Thư ký bị cáo Nguyễn Thanh Long; Vũ Anh tuấn, nguyên Phó trưởng phòng tham mưu, Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Công an; Nguyễn Thị Hương Lan, nguyên Cục trưởng Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) cùng về tội Nhận hối lộ; tuyên phạt bị cáo Hoàng Văn Hưng (nguyên điều tra viên) tù chung thân về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
(10) Võ Khánh Vinh: Hình phạt và hệ thống hình phạt, trong sách Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự, Nxb. CTQG, H.1994, tr.218.
|